SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MARIA

Trần Mỹ Duyệt

Ngày 8 tháng Chín, toàn thể Giáo Hội Công Giáo hân hoan mừng Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ Giáo Hội, và “mẹ” của mỗi người chúng ta.  

Sinh Nhật Đức Maria có khởi nguồn từ lễ thánh hiến một đền thờ của Đức Mẹ là Thánh Đường Thánh Anna ở Jerusalem vào thế kỷ thứ 6. Truyền thống cho rằng, đây là ngôi nhà của ông Joachim và bà Anna, cha mẹ của Đức Maria. Và cũng tại nơi đây, người đã được sinh ra. Thánh lễ đầu tiên được cử hành ở Rome vào thế kỷ thứ 8 dưới thời Đức Giáo Hoàng Sergius I (+8 September 701). Sinh Nhật Đức Maria là một trong ba thánh lễ mừng sinh nhật trong lịch phụng vụ của Giáo Hội, gồm: Sinh Nhật Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa (Lễ Giáng Sinh), Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả (24 tháng Sáu), và Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh (8 tháng Chín). [1]  

Thánh Kinh không nói gì về ngày sinh của Đức Mẹ. Chúng ta chỉ được biết đến Đức Maria khi Mẹ kết hôn với Thánh Giuse, Thụ Thai Ngôi Lời Nhập Thể. Thánh Matthêu trong Tin Mừng có trích lại lời tiên tri Isaia ám chỉ về người: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” (Mt 1:18-23)    

Tiểu sử Đức Maria  

Theo Ngụy Thư cũng được gọi là Phúc Âm của Giacôbê (the Protoevangelium of James) thì cha mẹ của Đức Maria là Joachim và Anne (Anna). Ông bà đã sinh con trong lúc tuổi già, tương tự như trong Cựu Ước xảy ra cho Sarah, vợ của Abraham, cho mẹ của Isaac, cho Hannah mẹ của Samuel. Đặc biệt trong Tân Ước, trường hợp cha mẹ của Gioan Tẩy Giả. Truyện cũng kể rằng, trong đền thờ, của lễ ông bị từ chối lý do vì ông không có con, mà không có con đối với quan niệm thời bấy giờ là một hình thức bị Thiên Chúa chúc dữ. Vì vậy, Joachim đã lui vào sa mạc thanh vắng chay tịnh và đền tội 40 ngày. Thiên thần đã hiện ra với ông và bà Anna báo tin rằng họ sẽ có một người con. Khi từ sa mạc trở về, bà Anna đã đón ông tại cổng thành của Tường Thành Jerusalem.  

Câu truyện về ngày sinh nhật của Đức Maria được kể lần đầu tiên vào thế kỷ thứ II. Theo truyền thống, người sinh tại Jerusalem. Nhà ở kế bên đền thờ, gần Cửa Chiên (Sheep Gate) và có hồ gọi là Bethesda. Ông Joachim cha người là người giầu có và đức độ. Ông thường thương giúp những kẻ nghèo khổ. Tuy nhiên, Charles Souvay trong Catholic Encyclopedia lại hoài nghi về sự giầu có này, và cho rằng ông Joachim không sở hữu nhiều gia súc và đoàn vật như vậy. [2]  

Tân Ước tuy có nói đến một ít thông tin về Đức Trinh Nữ Maria, nhưng không đề cập đến họ hàng thân thuộc. Những gì chúng ta biết được về trường hợp của Đức Maria là đoạn nói về việc người đứng dưới chân thập giá của Chúa Giêsu trên đồi Calvary do Thánh Gioan ghi lại: “Đứng gần thập giá của Chúa Giêsu là mẹ ngài, và với chị mẹ ngài, Maria vợ ông Clopas, và Maria Magdalene.” (Gioan 19:25). Chi tiết duy nhất này được các nhà chú giải Thánh Kinh, như trong Catholic Encyclopedia, đã nhắc đến lời giải thích của Thánh Jerome.  “Thánh Jerome đã đưa ra nhận định Alpheus với Cleophas là ai? Theo Hegesippus, là anh em của Thánh Giuse. Trường hợp này, Maria vợ Cleophas, hoặc Alpheus, là chị em dâu với Trinh Nữ Maria, và từ ngữ  “chị” (adelphe) trong Gioan 19:25 mang nghĩa này.”   

Ngoài ra, một số khác cho rằng Maria vợ Clopas là mẹ của Thánh James Tông Đồ căn cứ vào trích đoạn Tin Mừng của Marcô: “Có những phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong nhóm có Maria Magdalene, và Maria mẹ của Giacôbê hậu và Giuse, và Salome.” (Mark 15:40)     

Tóm lại, theo những gì Thánh Gioan và Thánh Marcô ghi lại thì ít nhất ở vào thời điểm Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá, cũng có chị họ hoặc chị dâu ở bên Mẹ. [3]   

Maria trong Thánh Kinh  

Theo tường trình của Phúc Âm, Đức Maria là thiếu nữ Giuđa, bạn trăm năm của Thánh Giuse và là mẹ của Chúa Giêsu.

Tân Ước diễn tả Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn mang thai Chúa Giêsu nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Sau khi sinh con tại Bethlehem, Mẹ đã nuôi con tại thành Nazareth ở Galilee. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên đồi Golgotha, sống lại và về trời, Mẹ đã được trối lại cho Gioan: “Này là mẹ con” (Gioan 19:27), và đã sống với Ông cho đến ngày từ trần tại Jerusalem. Cũng có tài liệu cho là Mẹ đã theo Thánh Gioan sang Tiểu Á và qua đời tại Ephesus hưởng thọ 72 tuổi vào năm 43 AD, hoặc năm 48 AD.    

Đức Maria là mẫu hình tâm điểm của mọi tín hữu Kitô giáo. Mẹ được tuyên xưng với nhiều tước hiệu, và đặc biệt, theo tín lý Công Giáo, Mẹ là đấng:  

Đầu Thai Vô Nhiễm Tội. Được Đức Giáo Hoàng Pius IX tuyên tín năm 1854.  

Đồng Trinh Trọn Đời. Định tín tại Công Đồng Lateran năm 649.  

Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác. Được Đức Giáo Hoàng Pius XII tuyên tín ngày 1 tháng Mười Một, 1950.  

Đức Maria là Theotokos – Mater Dei (Mẹ Thiên Chúa) -  xác tín của Công Đồng Ephesus năm 431. Sau này đã được giải thích thêm tại Công Đồng Chalcedon năm 451. [4]  

Mừng Sinh Nhật Mẹ  

Trên trời, Đức Maria là Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương Các Thiên Thần, Nữ Vương Các Thánh Nam Nữ. Dưới đất, Mẹ là Mẹ Giáo Hội, là Mẹ của toàn thể nhân loại, và của mỗi người chúng ta.  

Ngày sinh nhật của Mẹ, chúng ta mừng Mẹ cái gì?   

Ba Ngôi Thiên Chúa đã trao Mẹ mũ triều thiên vinh hiển bằng những đặc ân Đầu Thai Vô Nhiễm Tội, Trọn Đời Đồng Trinh, Hồn Xác Lên Trời, và Mẹ Thiên Chúa.  

Triều thần thánh hôm nay cũng sẽ vui mừng tung hô Mẹ: “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng hãy vui mừng. Alleluia!” 

Còn chúng ta. Để mừng sinh nhật Mẹ, không gì hơn là bằng cách nghe và thực hành lời Chúa. Trong tiệc cưới Cana, Mẹ đã ngỏ ý về món quà này khi nói với các gia nhân hôm đó, và cũng là mỗi chúng ta trong cuộc sống: “Người bảo gì thì hãy làm như vậy” (Gioan 2:5). Chính Mẹ cũng đã suy ngắm, đã thực hành điều này, và Thiên Chúa đã vui lòng về Mẹ. Khi người thiếu phụ ca tụng Mẹ vì được diễm phúc cưu mang và cho Chúa Giêsu bú, Ngài đã nói:  “Phúc hơn cho những ai nghe và thực hành lời Thiên Chúa.” (Luca 11:28)  

“Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người có phúc và rất xứng đáng mọi lời ca tụng, vì Mẹ đã sinh ra mặt trời công chính là Đức Kitô, Chúa chúng con. Alleluia”. [5]   

________  

Tham khảo:

 

1. https://en.wikipedia.org/wiki/Nativity_of_Mary

2.https://en.wikipedia.org/wiki/Joachim

3.https://udayton.edu/imri/mary/s/saints-ann-and-joachim-parents-of-the-blessed-virgin-mary-index.php

4. https://www.catholicnewsagency.com/resource/55423/the-four-marian-dogmas

5.Đáp Ca. Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria 

CHÌA KHÓA MỞ CÁNH CỬA HẠNH PHÚC CỦA HÔN NHÂN

Hôn nhân là một đời sống, một dòng chảy. Nó theo ta mọi ngày trong suốt cuộc đời. Nó được dệt bằng một chuỗi dài nối tiếp giữa những vui buồn, sung sướng, vất vả, hạnh phúc và thử thách. Nó không phải là một cái gì mà con người có thể mua bán, đổi chác, hoặc sở hữu. Nó luôn luôn ở trong thể động, và tùy thuộc vào người sống với những giây phút ấy của cuộc đời họ.


NGHÈO CÓ PHẢI LÀ DO CHÚA PHẠT

Nghèo, khó khăn, và thử thách là những vấn nạn mà mọi người, mọi gia đình thường gặp phải trong cuộc đời. Quan niệm nhà Phật gọi đời là “bể khổ!” Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta đọc thấy những lời này: “Chúng con, con cháu Evà ở chốn khách đầy kêu đến cùng Bà, chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương”. Tóm lại đã mang kiếp nhân sinh, không ai tránh khỏi cảnh nghèo và cũng ít ai tránh gặp phải những khó khăn, thử thách.


BÀI GIẢNG LỄ TRỌNG KÍNH ĐỨC TRINH NỮ MARIA LÊN TRỜI CỦA ĐỨC THÁNH CHA BENEDICT XVII

Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.


CHÚA BIẾN HÌNH TRÊN NÚI TABOR

Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.  


THIÊN CHÚA MỜI GỌI MỖI NGƯỜI CHÚNG TA

Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…  


NHỮNG NGƯỜI VỢ VỀ NGUỒN TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.  

Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,  


SAU ĐỒNG TÍNH, HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH, VÀ CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH CON NGƯỜI SẼ ĐI VỀ ĐÂU?

Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa. 


CHA MẸ BẮT ĐẦU DẠY CON TỪ LÚC NÀO?

Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.  

Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.  


NGUỒN HY VỌNG CỦA CHÚNG CON

Những kẻ tà đạo tân thời không thể chấp nhận điều mà chúng ta xưng tụng Đức Maria bằng cách gọi người là hy vọng của chúng ta. Kính chào hy vọng của chúng con, “spes nostra salve”. Họ nói chỉ mình Thiên Chúa mới là hy vọng của chúng ta, và rằng đặt hy vọng của Ngài nơi một tạo vật là làm nhục cho Thiên Chúa. Đức Maria, đối với họ chỉ là một tạo vật, và như một tạo vật, làm cách nào người có thể là hy vọng của chúng ta? Chính vì vậy, thay vì những điều các người tà đạo nói, Giáo Hội đòi hỏi các giáo sỹ, tu sỹ hằng ngày dâng lời thay cho toàn thể các tín hữu kêu cầu Đức Maria bằng một tên gọi hy vọng ngọt ngào của chúng ta, niềm hy vọng của toàn thể nhân loại: “Kính chào hy vọng của chúng con!”   

TRÁI TIM NHÂN TỪ BỊ ĐÂM THÂU

“Hôm đó là ngày áp lễ, người Do Thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sabát, mà ngày sabát đó lại là ngày lễ lớn. Nên họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Ðức Giêsu. Khi đến gần Ðức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh dập. Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Ðấng họ đã đâm thâu” (Gioan 19:31-37).      

LỄ MẸ THĂM VIẾNG BÀI HỌC CỦA ĐỨC ÁI

Qua trình thuật trên, Thánh Luca đã tỷ mỷ tường thuật về việc Đức Maria đi thăm viếng người chị họ mình là Isave (Elizabeth). Hành động của Mẹ không chỉ nói lên tình cảm thân thiết giữa hai chị em, đặc biệt, trong tình trạng bà Isave đang mang thai lúc tuổi đã cao và ở những tháng cuối. Cuộc thăm viếng này không dừng lại ở khía cạnh tình cảm, nó còn mang ý nghĩa giới thiệu với bà Isave, với bào thai Gioan và cả thế giới một tin vui, đó là chính Đức Maria cũng đang mang thai, mà thai nhi ấy là Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể để cứu chuộc nhân loại.     

CHÚA THÁNH THẦN HƠI THỞ SỰ SỐNG

Lời hứa được trọn vẹn. Thánh Thần được ban xuống trên toàn thế giới, không đơn giản chỉ cho những nhà lãnh đạo và các tiên tri của Do Thái xưa, cũng không loại trừ 120 tông đồ, môn đệ, và Mẹ của Chúa Giêsu, những người đã tụ họp tại Giêrusalem vào lúc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Kinh nghiệm của 120 người nam nữ này cũng chính là kinh nghiệm của tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh, sống lại và giờ đây đang ngự bên hữu Chúa Cha. Chúng ta hãy dừng lại ít phút để suy nghĩ xem chúng ta cảm nhận như thế nào về Tặng Ân của Chúa Thánh Thần.      

TÌNH CẢM VỢ CHỒNG THAY ĐỔI THEO THỜI GIAN

Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:   


PHỤ HUYNH CẦN LÀM GÌ ĐỂ GIÚP CON EM KHI BỊ BẮT NẠT Ở TRƯỜNG

“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”

Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội. 


THÁNH GIUSE THỢ

- Lễ Kính 1 tháng 5

Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).   

Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David.  Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa,  Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.


TÓM LƯỢC LỊCH SỬ NHỮNG PHÉP LẠ THÁNH THỂ

“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”


LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA: QUÀ TẶNG CỦA PHỤC SINH

“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *

Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.” 


NGƯỜI KHÁCH LẠ TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS

Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.    


MẦU NHIỆM PHỤC SINH QUA CHIẾC KHĂN LIỆM  

Anh chị em thân mến,

Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.


SỢ HÃI KHI CON THUYỀN PHÊRÔ GẶP SÓNG GIÓ!

Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]

Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người. 


CON CÓ BIẾT KHI NGƯỜI TA ĐÓNG ĐINH CHA?!  

Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.


NGÔI  MỘ TRỐNG - Chúa đã Phục Sinh. Alleluia.  

Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.

Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.


NHỮNG NGÔI MỘ TRẮNG  

Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?